Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, tác động đến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Việc thực hiện chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ để xây dựng, kiến tạo và lan tỏa văn hóa số đang ngày càng trở thành xu hướng ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa, con người, làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi, lối sống của con người, từ đó hình thành nên văn hóa số. (Ảnh minh họa: nhiepanhdoisong.vn)
1. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là thời cơ lớn cho tất cả quốc gia, trong đó có Việt Nam, để rút ngắn quá trình phát triển, là cơ hội để tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành, nghề và khả năng tiếp cận thị trường dựa trên các nền tảng kỹ thuật, công nghệ hiện đại gắn kết với chuỗi cung ứng toàn cầu, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu và chi phí sản xuất, quản lý; từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, mang lại lợi ích to lớn cho nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng mang lại cơ hội và tạo điều kiện cho việc thực hiện chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, văn hóa, du lịch, dịch vụ, logistics… Trước yêu cầu của thời kỳ mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”(1).
Chuyển đổi số là tất yếu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là quá trình khách quan của thời đại; tạo nên đột phá lớn trong phát triển kinh tế – xã hội. Đây là quá trình chuyển đổi về tư duy, nhận thức và hoạt động của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Chuyển đổi số không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí, mà còn mở ra không gian phát triển mới, tạo ra các giá trị mới ngoài các giá trị truyền thống vốn có. Chính vì vậy, có thể thấy, cuộc cách mạng số, chuyển đổi số không chỉ là cuộc cách mạng về khoa học, công nghệ, kỹ thuật, mà còn là một cuộc cách mạng đã, đang và sẽ làm thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ, sâu sắc tất cả các mặt của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, pháp luật, an ninh, văn hóa, truyền thông, giáo dục… đến đời sống của từng con người, của các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, mà còn có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa, con người; làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi, lối sống của con người, từ đó hình thành nên văn hóa số. Do đó, trong bối cảnh mới hiện nay, phát triển hệ sinh thái công dân số là một nền tảng quan trọng của chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số là động lực quan trọng để phát triển kinh tế; xây dựng xã hội số là một trong những nền tảng của xã hội; xây dựng, kiến tạo và lan tỏa văn hóa số là một phần quan trọng của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Hiện nay, văn hóa số có thể được coi là một phần không thể thiếu của nền văn hóa dân tộc. Văn hóa số được hiểu là phương thức và hoạt động văn hóa (sáng tạo, lưu giữ, truyền bá, tiếp nhận, thưởng thức,…) của cá nhân và cộng đồng trên cơ sở ứng dụng các phương tiện và công nghệ kỹ thuật số; là các quy tắc ứng xử (lối sống, ứng xử, phương cách giao tiếp, làm việc,…) và chuẩn mực đạo đức, pháp luật của con người trong môi trường số. Văn hóa số giúp mọi người tiếp cận lượng tri thức văn hóa đồ sộ của toàn nhân loại đã hình thành trong quá trình lịch sử và sản sinh ra những giá trị văn hóa mới trên nền tảng số. Ngoài các phương tiện truyền thông truyền thống thì sự ra đời của các phương tiện truyền thông mới – truyền thông xã hội, như Facebook, Twitter, Youtube, Instagram, Zalo, Tik Tok… đã trở thành các kênh thông tin thu hút công chúng và trở thành hiện tượng văn hóa mới, là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa đa dạng và phong phú, đưa văn hóa đến được mọi tầng lớp nhân dân, thu hẹp khoảng cách tiếp cận và thụ hưởng văn hóa giữa các vùng, miền trong nước và các khu vực trên thế giới.
Chuyển đổi số đã tạo ra một môi trường văn hóa mới của con người, đó là môi trường số, môi trường trên internet, môi trường ảo, bên cạnh môi trường thực mà chúng ta đã, đang sống quen thuộc. Môi trường số đòi hỏi có văn hóa số, công dân số, con người thời đại số. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(2). Có thể nói, nếu chúng ta biết xây dựng, kiến tạo văn hóa số thì các giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại sẽ vượt qua giới hạn thời gian và không gian để lan tỏa và phát triển bền vững. Do đó, xây dựng văn hóa số cũng như môi trường văn hóa số là vấn đề vừa có tính cấp thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, cần sớm được triển khai một cách đồng bộ để góp phần định vị và củng cố sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Có thể nhận thấy việc xây dựng, kiến tạo và lan tỏa văn hóa số ở nước ta hiện nay bao gồm các nội dung, nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.
Chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trong các hoạt động văn hóa. Đây là một quá trình liên tục, không ngừng, phát triển theo quy mô, mức độ phát triển của công nghệ và khả năng tiếp nhận công nghệ. Đối với ngành văn hóa, chuyển đổi số đã, đang và sẽ làm thay đổi phương pháp, công nghệ, kỹ thuật sản xuất, quảng bá và truyền thông, truyền thụ sản phẩm văn hóa; hỗ trợ lưu giữ, bảo tồn và phổ biến sản phẩm văn hóa; làm gia tăng cơ hội tiếp cận văn hóa, thực hiện quyền văn hóa và đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng của người dân; là công cụ hữu hiệu để hỗ trợ nhà văn hóa nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng sáng tạo và phát triển sản phẩm văn hóa mới trên nền tảng số. Chuyển đổi số trong văn hóa mang lại những thay đổi tích cực, tạo thuận lợi cho việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời góp phần nâng cao giá trị kinh tế của văn hóa, góp phần phát triển kinh tế số. Do vậy, cần tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ kỹ thuật số vào các lĩnh vực và hoạt động văn hóa để văn hóa số trở nên đa dạng và phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu của mọi người. Các “nhà hát online”, “bảo tàng online”, “bảo tàng kỹ thuật số”, “thư viện số”, “Google book”, sách điện tử, sách nói, du lịch số, du lịch thông minh,… với các giải pháp marketing số trên truyền hình, mạng xã hội, các kênh trực tuyến thời gian qua đã được công chúng đón nhận, hưởng ứng và sử dụng tích cực. Tuy nhiên, cần lưu ý, trong quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, bên cạnh yếu tố công nghệ, cần chú trọng yếu tố nội dung tư tưởng, ý nghĩa xã hội, nhân văn của các hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa được thực hiện bằng công nghệ số, trên môi trường số. Đặc biệt chú ý vai trò, phẩm chất, năng lực của cán bộ quản lý văn hóa, nhà văn hóa, văn nghệ trong mối tương tác với công nghệ. Người làm công tác chuyên môn trong ngành văn hóa cần thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và cập nhật kiến thức, kỹ năng về chuyển đổi số. Đây là các nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.
Bên cạnh đó, cần nhận thức đầy đủ mặt trái và thách thức của công nghệ số, đặc biệt là các tác động tiêu cực của truyền thông xã hội, các cách thức thông tin giao tiếp trên không gian mạng với những “nguy cơ”, “bất trắc” khó lường… Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số,… vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hóa”(3). Vì thế, cần nắm bắt kịp thời các vấn đề xâm phạm bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh quốc gia, an ninh thông tin, an ninh văn hóa, an ninh con người, tội phạm công nghệ cao, hay những sản phẩm thông tin lệch lạc, sai trái, chạy theo thị hiếu tầm thường…; từ đó có các biện pháp chủ động ứng phó và kiểm soát kịp thời, hiệu quả.
Hai là, xây dựng di sản văn hóa số.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại”(4). Do đó, trong bối cảnh cách mạng số, việc đẩy mạnh số hóa di sản văn hóa, hình thành di sản văn hóa số là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong xây dựng và lan tỏa văn hóa số. Việc hình thành di sản văn hóa số (bao gồm di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể) vừa giúp cho công tác lưu trữ, bảo tồn di sản văn hóa được lâu dài, không bị mai một bởi thời gian và các tác động vật lý khác, vừa thu hút người sử dụng, thụ hưởng được trải nghiệm trực tuyến, tiếp cận di sản văn hóa thuận lợi hơn bao giờ hết (có thể ở mọi lúc, mọi nơi).
Ngày 2/12/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2026/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, trong đó xác định mục tiêu đến năm 2030: 100% di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh, 100% di tích quốc gia đặc biệt được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số, 100% bảo vật quốc gia, các di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; ưu tiên số hóa theo nhu cầu sử dụng của xã hội các di tích quốc gia và các hiện vật, nhóm hiện vật tại các bảo tàng, ban quản lý di tích. Để đạt được các mục tiêu trên, một trong những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm là hoàn thiện cơ chế, chính sách và quy định của pháp luật, xây dựng, hoàn thiện và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về xây dựng di sản văn hóa số, chuẩn hóa dữ liệu di sản văn hóa của kho dữ liệu số quốc gia. Xây dựng di sản văn hóa số và hệ sinh thái văn hóa số cần dựa trên nền tảng công nghệ số thống nhất, mang tính hệ thống của cả quốc gia nhằm quản lý, lưu trữ, khai thác, bảo tồn, quảng bá và hỗ trợ thúc đẩy phát triển văn hóa bền vững. Nghiên cứu xây dựng di sản văn hóa số có khả năng liên thông, tích hợp và triển khai Hệ tri thức Việt số hóa; thực hiện liên thông dữ liệu số quốc gia về di sản văn hóa với các dữ liệu số quốc gia khác, cho phép chia sẻ dữ liệu của các lĩnh vực bảo tàng, thư viện,..; xác lập quyền truy cập, quyền khai thác thông tin của tổ chức, cá nhân trong phát triển văn hóa, du lịch và các nhu cầu khác trong nước và quốc tế. Đổi mới chương trình, hình thức đào tạo, đào tạo lại, tập huấn để xây dựng nguồn nhân lực số, nâng cao nhận thức, trình độ, kỹ năng chuyển đổi số cho cán bộ quản lý và người làm công tác di sản văn hóa.
Ba là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Dưới tác động của chuyển đổi số và sự phát triển của nền kinh tế thị trường toàn cầu, nhiều lĩnh vực sáng tạo và sản xuất sản phẩm văn hóa đã được “công nghệ hóa”, “kinh tế hóa” và trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới. Các yếu tố văn hóa và yếu tố kinh tế, kỹ thuật, công nghệ ngày càng có sự gắn kết chặt chẽ. Và các ngành công nghiệp văn hóa đã ra đời và phát triển với ứng dụng công nghệ số vào quá trình sáng tạo, sản xuất, phổ biến sản phẩm văn hóa và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa ngày càng phong phú và đa dạng của người dân, đem lại lợi ích kinh tế cao.
Chương trình nghệ thuật “Âm vang Mê Linh” tại Di tích quốc gia đặc biệt đền Hai Bà Trưng là sự kết hợp giữa âm thanh, ánh sáng với công nghệ 3D mapping hiện đại. (Nguồn: toquoc.vn)
Có thể thấy, trong bối cảnh hiện nay, với nền tảng số, công nghệ số, việc phát triển công nghiệp văn hóa cũng như thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa sẽ đưa văn hóa trở thành nguồn lực trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức về vai trò của văn hóa sẽ được mở rộng, sâu sắc và toàn diện hơn. Văn hóa không chỉ có chức năng nhận thức tư tưởng – thẩm mỹ và giáo dục xã hội, mà còn có chức năng kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển nhanh, bền vững đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đang là xu thế lớn và quan trọng hàng đầu trong chính sách văn hóa (và kinh tế) của nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa”(5). Ngày 8-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó xác định tập trung phát triển 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa(6). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng điểm, trọng tâm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”(7). Chúng ta cần phát huy tối đa lợi thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cách mạng số, chuyển đổi số để phát triển công nghiệp văn hóa, gia tăng khả năng tiếp cận sản phẩm văn hóa của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng văn hóa, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, tiếp thu thành tựu phát triển công nghiệp văn hóa của thế giới.
Bốn là, xây dựng con người thời đại số, công dân số và văn hóa ứng xử trên môi trường số.
Sự hình thành, phát triển của các phương tiện truyền thông mới, đặc biệt là các phương thức liên kết mới trên môi trường số, không gian mạng đã và đang đặt ra những vấn đề mới trong công tác quản lý, phát triển văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng con người, văn hóa ứng xử, chuẩn mực đạo đức, pháp luật của con người trên môi trường số.
Muốn xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số và văn hóa số thì trước hết phải quan tâm xây dựng con người thời đại số, công dân số có năng lực và phẩm chất cơ bản để kiến tạo phát triển. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đó là khả năng khai thác, trao đổi, truy cập các nguồn thông tin số, khả năng giao tiếp, tiếp nhận thông tin trong môi trường số, kỹ năng số, hoạt động kinh doanh, mua bán hàng hóa trên không gian mạng, chuẩn mực, giá trị đạo đức dưới tác động của môi trường số, bảo vệ thể chất và tâm lý trước ảnh hưởng từ môi trường số, quyền và trách nhiệm của công dân trong môi trường số, an toàn, an ninh thông tin, định danh và xác thực, bảo đảm quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân trong môi trường số.
Có thể thấy, nếu biết phát huy mặt tích cực của các phương tiện truyền thông mới, của công nghệ số, văn hóa số, chúng ta có thể lưu giữ, sáng tạo, truyền bá được nhiều nhất, nhanh nhất những sản phẩm, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại đến với đông đảo tầng lớp nhân dân. Để làm được điều đó đòi hỏi người tham gia mạng xã hội, tham gia văn hóa số có văn hóa ứng xử và chuẩn mực đạo đức trong môi trường số. Ngày 17/6/2021, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT về việc ban hành “Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội”, nhằm hướng dẫn, tạo điều kiện hình thành và phát triển các hoạt động lành mạnh trên mạng xã hội tại Việt Nam với các nội dung, như bảo đảm quyền tự do cá nhân, không phân biệt đối xử nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước; quy định và khuyến khích các hành vi sử dụng mạng xã hội phù hợp với chuẩn mực, thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; đề xuất xây dựng các giá trị, chuẩn mực đạo đức, giáo dục ý thức, tạo thói quen tích cực trong hành vi ứng xử của người dùng đối với hành vi, ứng xử trên mạng xã hội, góp phần xây dựng môi trường mạng an toàn, môi trường văn hóa số lành mạnh và tiến bộ ở nước ta; ngăn chặn, đẩy lùi hành vi phản văn hóa, phi văn hóa, vi phạm pháp luật trên môi trường mạng, môi trường số. Do đó, mỗi người dân cần có ý thức chủ động, tích cực thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, nâng cao trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân trong sử dụng mạng xã hội, qua đó góp phần xây dựng, hoàn thiện môi trường mạng an toàn, môi trường văn hóa số lành mạnh, tích cực.
Năm là, tổ chức thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng năm 2018 và các quy định pháp luật liên quan trên không gian mạng.
Trong thời đại cách mạng số, việc bảo đảm an ninh văn hóa, an ninh con người, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta có nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã và đang triệt để sử dụng thành tựu về khoa học, công nghệ, sử dụng mạng xã hội, công nghệ số để gia tăng các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta trên tất cả lĩnh vực, trong đó trọng tâm là phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và nền văn hóa dân tộc. Nhiều dịch vụ trên không gian mạng của nước ngoài tràn vào Việt Nam có nội dung vi phạm pháp luật, không phù hợp với nền tảng đạo đức, văn hóa, thuần phong, mỹ tục Việt Nam… Bên cạnh đó, không ít người dân chưa hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về quyền tự do ngôn luận (đã được Hiến pháp và pháp luật quy định) nên đã có hành vi vu khống, bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự cá nhân và tổ chức, vi phạm pháp luật, gây tác động tiêu cực đến an ninh văn hóa, an ninh xã hội, đến thuần phong, mỹ tục, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Vì vậy, cần tổ chức thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng (năm 2018) và các quy định pháp luật có liên quan khác để quản lý môi trường và không gian mạng, nhất là có biện pháp, chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm minh, kịp thời, đủ sức ngăn chặn sai phạm trên môi trường mạng, môi trường văn hóa số. Cần có những giải pháp đồng bộ, toàn diện để nâng cao nhận thức và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân, ý thức thượng tôn pháp luật và “năng lực quản trị bản thân” của mỗi tổ chức, doanh nghiệp và người dân khi tham gia hoạt động trong môi trường văn hóa số nhằm tránh hành vi lệch chuẩn và hành vi vi phạm pháp luật trên môi trường mạng. Đồng thời, các cấp ủy, chính quyền cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh văn hóa, an ninh con người, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới cũng như đẩy mạnh hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.
Có thể thấy, hiện nay, việc thực hiện chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ để xây dựng, kiến tạo và lan tỏa văn hóa số sẽ tạo nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế số, xã hội số ở nước ta, đồng thời góp phần phát triển con người toàn diện, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa số không thay thế, triệt tiêu văn hóa thực tại, vốn đã gắn liền với đời sống xã hội và con người chúng ta hàng nghìn năm nay mà bổ sung một cách tích cực, làm phong phú và đa dạng, hiện đại nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng, góp phần vào việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế; từng bước gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới./.
PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC
Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
______________________
(1) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.214, 145.
(2) (3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.172, 169.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr.63.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.130.
(6) 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa là: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; du lịch văn hóa.
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)
Sưu tầm H.C
Visits: 1