HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH AN GIANG

Đoàn kết, sáng tạo, hội nhập,
khát vọng phát triển, xây dựng tổ chức hội vững mạnh
Chim
Từ tư tưởng “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay

(Danvan.vn) Cách đây 75 năm, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo Dân vận(1). Tác phẩm Dân vận có nội dung rất ngắn gọn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ và làm theo; phù hợp với trình độ của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta, nhưng trong đó hàm chứa tầm vóc tư tưởng của một tác phẩm lớn, thể hiện tầm cao trí tuệ, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận.

 

 Tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Sự thật năm 1949

Tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện những quan điểm, nhận thức mới về vai trò, sức mạnh to lớn của Nhân dân; về tầm quan trọng của công tác dân vận và những chỉ dẫn cho toàn Đảng, cho mỗi cán bộ, đảng viên về phương pháp, cách thức dân vận; những yêu cầu phải thực hiện để công tác dân vận phát huy được đông đảo lực lượng nhân dân cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo.

1. Tác phẩm Dân vận – sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh của Nhân dân và tư tưởng “lấy dân làm gốc”

Tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống dân tộc và tinh hoa thời đại. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của các bậc tiền nhân trong lịch sử khi nhìn nhận về vị trí, vai trò, sức mạnh “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Là nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo, Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của Nhân dân – những người làm nên lịch sử. Bởi vậy, Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”(2). Thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm Dân vận của Người là tư tưởng trọng dân, đề cao Nhân dân, lấy đạo lý phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và là nhiệm vụ cao cả nhất của người cách mạng. Tư tưởng đó, đồng thời trở thành phương châm hành động trong toàn bộ cuộc đời hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng trọng dân, dân là gốc của nước, dân là chủ thể của mọi hoạt động sáng tạo ra lịch sử; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân được Hồ Chí Minh phân tích trên nhiều chiều cạnh, trong đó thể hiện thông qua bản chất dân chủ của nhà nước. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ”; Nhà nước ta được xây dựng bởi Nhân dân, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân; “nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong một chính thể dân chủ: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Đảng và Nhà nước phải lấy lợi ích chính đáng của Nhân dân làm mục tiêu tối thượng, mọi hoạt động đều vì lợi ích của Nhân dân, phục vụ Nhân dân; ngoài ra, không có lợi ích nào khác.

Đề cao dân chủ, Hồ Chí Minh cũng đồng thời yêu cầu: Nhân dân được hưởng quyền lợi làm chủ, thì đồng thời cũng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm của người chủ, có trách nhiệm xây dựng và quản lý nhà nước của mình, chế độ do mình lập ra và xã hội do mình xây dựng. Điều đó đòi hỏi trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới, kháng chiến, kiến quốc, chính Nhân dân là chủ thể tổ chức và hành động: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”.

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị công tác nào đều phải không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác vận động, tập hợp Nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân để phục vụ và mưu cầu lợi ích của Nhân dân. Mọi suy nghĩ và hành động của cán bộ, đảng viên đều phải “từ quần chúng mà ra và trở lại nơi quần chúng”(3), đều phải dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”, phấn đấu vì quyền lợi của Nhân dân để “đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân”(4).

2. Tư tưởng “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh – nền tảng về công tác dân vận của Đảng, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn về tập hợp, tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, với tư duy biện chứng, trong tác phẩm Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những vấn đề cốt lõi của công tác vận động quần chúng, từ việc giải thích: “Dân vận là gì?”; “Ai phụ trách dân vận?” cho đến “Dân vận phải thế nào?” để đúng và khéo. Những nội dung đó thể hiện rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của công tác dân vận, nhằm mục tiêu động viên tối đa sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đặc biệt trong những thời điểm mang tính bước ngoặt cách mạng, khi “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”.

 Đồng chí Mai Văn Chính, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương phát biểu khai mạc và đề dẫn Hội thảo khoa học với chủ đề: “75 năm tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Giá trị lý luận và thực tiễn đối với công tác dân vận hiện nay (15/10/1949 – 15/10/2024)”, ngày 11/10/2024

Xuất phát từ mục tiêu xây dựng chế độ xã hội mới, xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải đoàn kết, tập hợp hết thảy lực lượng toàn dân tộc, “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. Muốn vậy, các giải pháp thực hiện của công tác dân vận phải vừa bao quát, vừa mang tính cụ thể, thực chất và thiết thực.

Trước hết, phải phát huy trách nhiệm của Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị đối với công tác dân vận. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận”. Trong tổ chức và thực hành công tác dân vận, phải khuyến khích được động lực lợi ích và tính hăng hái cách mạng của quần chúng; trong mọi công việc phải bàn bạc dân chủ với dân, “hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”; đồng thời phải “theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”. Đặc biệt, Người yêu cầu trong lúc thi hành công tác dân vận, cán bộ dân vận phải gương mẫu “nói đi đôi với làm”, phải “thật thà nhúng tay vào việc”, “không nói suông”, “chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, phải “làm kiểu mẫu cho dân”; luôn chú ý kiểm tra, kiểm soát, rút kinh nghiệm trong công tác. Người cán bộ dân vận phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, gần gũi Nhân dân, học dân, hiểu dân, từ đó huy động được tài dân, sức dân vào sự nghiệp cách mạng.

Là nhà hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấu những vấn đề đặt ra và cả những lệch lạc, yếu kém trong công tác dân vận. Người chỉ ra và phê phán: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận”, thói phó mặc cho người khác, thói vô trách nhiệm, “tự cho mình không có trách nhiệm dân vận” của không ít cán bộ. Đó không chỉ là khuyết điểm mà còn là “sai lầm rất to, rất có hại” đối với sự nghiệp cách mạng.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của Nhân dân, Người khẳng định dân là “gốc” của nước, “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Nhất quán với quan điểm đó, trong tác phẩm Dân vận, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định tầm quan trọng quyết định của công tác dân vận đối với thành bại của sự nghiệp cách mạng: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Đúc kết đó của Hồ Chí Minh vừa là một chân lý, vừa là một khoa học và nghệ thuật của công tác dân vận.

Những chỉ dẫn quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Dân vận đã là cơ sở, kim chỉ nam cho công tác dân vận của Đảng và của các tổ chức trong hệ thống chính trị, qua các thời kỳ cách mạng.

3. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Dân vận” khẳng định sự kết tinh của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân và công tác vận động quần chúng của Đảng

Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vận dụng đúng đắn và sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, trong tiến trình cách mạng, Đảng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận động, tập hợp, đoàn kết, huy động các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh to lớn trong các phong trào cách mạng. Những thắng lợi mang tầm vóc lịch sử mà dân tộc ta giành được trong các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội… Trải qua gần 40 năm đổi mới, với sự chung sức, đồng lòng phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra những điều kiện, tiền đề thuận lợi, thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đó là những minh chứng hùng hồn về sức mạnh vĩ đại của toàn dân, khi được Đảng Cộng sản lãnh đạo khéo tổ chức, vận động và phát huy trong tiến trình cách mạng.

Đoàn công tác Ban Dân vận Trung ương do đồng chí Mai Văn Chính,Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương làm Trưởng đoàn cùng Lãnh đạo tỉnh Tuyên Quang thăm Di tích Khấu Lấu – Vực Hồ (xã Tân Trào, huyện Sơn Dương) – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Dân vận”

Trong công cuộc đổi mới, nội dung và giá trị tác phẩm Dân vận vẫn giữ nguyên tính thời sự sâu sắc, là cơ sở lý luận để Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách về công tác dân vận. Những chủ trương, chính sách về công tác dân vận, về đại đoàn kết dân tộc, về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, về tôn giáo, dân tộc, người Việt Nam ở nước ngoài… trong thời kỳ đổi mới được Đảng và Nhà nước ta xây dựng, bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Sự nghiệp đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cách mạng, nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự nghiệp to lớn và vẻ vang đó xuất phát từ chính nhu cầu, nguyện vọng và sáng kiến của quần chúng nhân dân. “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do Nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) khẳng định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân”. Đó cũng là bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc cần được vận dụng và phát huy trong tình hình hiện nay.

4. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận có ý nghĩa to lớn trong thực hiện công cuộc đổi mới đất nước

Qua 40 năm đổi mới đất nước cho thấy công tác dân vận của Đảng đã có sự phát triển rất sâu sắc về lý luận và thực tiễn, được nâng tầm với nhiều nội dung mới, thể hiện tinh thần, tư tưởng mới của Đảng. Nhân dân là gốc và được đặt ở vị trí trung tâm, đóng vai trò chủ thể, là bước phát triển mới cả về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn; được thể hiện đậm nét trong mọi chiến lược phát triển đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới và đó cũng là cơ sở, là mục tiêu trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được làm sáng tỏ, được xây dựng, từng bước hoàn thiện và có bước phát triển hết sức mạnh mẽ và sâu sắc, nhất là từ khi Đảng ban hành, thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW và Nhà nước thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, cao nhất là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Dân chủ đã được triển khai ngày càng sâu rộng; các hình thức thực hành dân chủ từng bước được hoàn thiện, được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và thực sự đi vào cuộc sống, nhất là dân chủ ở cơ sở, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội…, gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ trực tiếp ngày càng được mở rộng, từ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đến bổ sung “dân giám sát, dân thụ hưởng” (Đại hội XIII); hình thức đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo cấp ủy, chính quyền với Nhân dân ngày càng tăng cường và nền nếp, hiệu quả. Có thể thấy, Đảng ta luôn thể hiện sự quan tâm đặc biệt với chủ trương nhất quán, xuyên suốt các kỳ Đại hội và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, đổi mới và hoàn thiện thể chế đảm bảo dân chủ cơ sở, quyền làm chủ thực sự của Nhân dân; khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong mọi thời kỳ. Đặc biệt, cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đã từng bước được làm sáng tỏ và ngày càng nhuần nhuyễn.

Công tác dân vận được khẳng định ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn vị trí, yêu cầu nhiệm vụ với năm quan điểm sâu sắc của Đảng về công tác dân vận trong thời kỳ mới. Đặc biệt, quan điểm công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng về xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Cùng với việc không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nội dung, phương thức công tác dân vận của hệ thống chính trị không ngừng được đổi mới, chuyển biến tích cực, góp phần tạo đồng thuận xã hội, phát huy vai trò chủ thể và sức mạnh của Nhân dân, củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc từng bước được xây dựng, củng cố và khẳng định vai trò chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy vai trò tập hợp, vận động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, công tác dân vận đã tập hợp ngày càng rộng rãi hơn các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; mở rộng đoàn kết trong nước và đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; làm tốt vai trò nòng cốt trong củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trở thành yêu cầu quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ then chốt, là đòi hỏi tất yếu trong tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quyết định sự tồn vong của chế độ. Đảng ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình bằng bản lĩnh, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho Nhân dân, cho đất nước; bằng sự đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt; bằng thực hiện tốt mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng, ủng hộ và bảo vệ. Trong đó xây dựng Đảng về đạo đức được đẩy mạnh và thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên được đề cao hơn. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được chỉ đạo ngày càng quyết liệt, có bước tiến mạnh, đột phá, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, là quá trình phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng qua các kỳ đại hội và đến Đại hội XIII đã điều chỉnh, bổ sung nhiều quan điểm mới trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực thi trên thực tế. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn. Chính phủ, Quốc hội, các cơ quan tư pháp ngày càng đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành, hoạt động; thực hiện ngày càng hiệu quả, thực chất hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ”.

 Đồng chí Mai Văn Chính, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương và lãnh đạo Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Tỉnh uỷ Lào Cai thăm hỏi, động viên, trao hỗ trợ cho các hộ gia đình bị thiệt hại về người, tài sản do cơn bão số 3 tại xã Nậm Lúc, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai (ngày 15/9/2024)

Quá trình đổi mới kinh tế từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường từ Đại hội VI và đến mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Đại hội IX là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh tế của Đảng. Mô hình này ngày càng được làm rõ và hoàn thiện, đảm bảo gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm. Công cuộc đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, sâu sắc và tích cực cho đất nước. Kinh tế phát triển, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng nâng cao; cùng với những chính sách nhân văn, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, thỏa mãn nhu cầu sống, lao động, cống hiến và thụ hưởng của mọi người dân. Niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố vững chắc.

40 năm thực hiện công cuộc đổi mới là chặng đường vinh quang, thể hiện sinh động và sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Dân vận”, khẳng định vị trí, vai trò của công tác dân vận trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

5. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức dân vận theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Dân vận” trong tình hình mới

Trong mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng, công tác dân vận của Đảng có những nội dung, phương thức khác nhau, nhưng mục tiêu quan trọng nhất đều nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, củng cố niềm tin vững chắc của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, vận động, thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng, thi đua yêu nước, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

Sự vận dụng sáng tạo tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới, là những giá trị bền vững  của công tác dân vận; từ đó, đòi hỏi phải đổi mới công tác dân vận một cách thiết thực, sáng tạo, vừa bao phủ rộng khắp, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm, hướng đến mục tiêu đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Giai đoạn phát triển mới của đất nước với các nhiệm vụ lớn về đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững, hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với việc phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân, để tạo nên phong trào rộng lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, trình độ dân trí ngày càng cao, ý thức và vai trò làm chủ của Nhân dân ngày càng được mở rộng, các phương tiện thông tin, mạng xã hội trực tiếp tác động ngày càng đa dạng, đa chiều; các thế lực thù địch, phần tử xấu chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt… đòi hỏi công tác dân vận của Đảng phải không ngừng đổi mới, tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị, trở thành hành động thiết thực gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị; phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhất là đẩy mạnh chuyển đổi số, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội… Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo, hướng đến mục tiêu đồng thuận, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác dân vận, thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; cán bộ, đảng viên phải nêu gương trong thực hiện công tác dân vận, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Khi ban hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải luôn ý thức sâu sắc “Dân là gốc”, “lòng dân là thước đo”; phải nghiên cứu kỹ, thấu đáo nhiều chiều, thực sự thiết thực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, với cuộc sống của Nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thật sự là các “quyết sách lòng dân”, xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; đồng thời, phải động viên, hướng dẫn, tổ chức Nhân dân chủ động, tích cực tham gia vào quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách đó một cách hiệu quả nhất. Phải lấy chất lượng cuộc sống, sự hài lòng và tín nhiệm của Nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng của các chính sách; lấy kết quả tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách để đánh giá năng lực, uy tín của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nếu làm được như vậy chính là thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Cần lưu ý rằng, trong quá trình xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội phải có trách nhiệm tham gia ngay từ khâu đầu tiên, phải phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của Nhân dân, nhất là những chủ trương, chính sách liên quan đến đời sống nhân dân.

Ba là, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và đoàn thể tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; quan tâm giúp đỡ người yếu thế, khó khăn trong xã hội; đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tăng cường tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên nhất là ở vùng sâu, xa, khó khăn, khu công nghiệp tập trung đông công nhân; thực sự là cầu nối vững chắc giữa Đảng với Nhân dân.

Tiếp tục xây dựng, nhân rộng các mô hình, điển hình “Dân vận khéo”, nhất là trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Gắn phong trào thi đua “Dân vận khéo” với đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, nhất là công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, đánh giá, kịp thời biểu dương, khen thưởng các mô hình “Dân vận khéo”, tạo khí thế và bước chuyển mới trong phong trào thi đua yêu nước hiện nay.

Bốn là, Ban Dân vận Trung ương và Ban Dân vận các cấp tập trung tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là nghị quyết của các Hội nghị Trung ương khóa XIII, các nội dung liên quan đến công tác dân vận, đến Nhân dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm định, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các văn bản của Đảng về công tác dân vận; xuyên suốt là giám sát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” theo Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30/7/2021 của Bộ Chính trị, thúc đẩy cả hệ thống chính trị thi đua làm công tác dân vận, thực hành “Dân vận khéo” trong thực thi nhiệm vụ; đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.

Năm là, Ngành Dân vận chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận các cấp bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, có năng lực, trình độ, kinh nghiệm, hiểu biết sâu rộng, có kỹ năng, phương pháp công tác khoa học, luôn đổi mới, công tâm, khách quan. Cán bộ làm công tác dân vận phải thực sự dấn thân, trưởng thành từ thực tiễn phong trào cách mạng; chân thành lắng nghe và chắt lọc các ý kiến của Nhân dân, kịp thời phản ánh, đề xuất các giải pháp hiệu quả để yên dân, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; thực hành theo phong cách dân vận của Hồ Chí Minh: “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.

Có thể nói, ngay từ khi hình thành, công tác dân vận đã được dẫn đường bằng tư tưởng, lý luận đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mọi cán bộ, đảng viên được Bác luôn quan tâm, rèn giũa không chỉ bằng cẩm nang nghiệp vụ “Dân vận” mà còn bằng cả đạo đức trong sáng, tinh thần nêu gương mẫu mực của chính Người. Nghĩ về Bác, để thực hiện cho được di nguyện cuối cùng của Người là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” thì chỉ có một con đường duy nhất là phải giữ vững được niềm tin của Nhân dân và dựa vào Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng di sản tư tưởng của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta vô cùng to lớn và quý giá. Lý luận và thực tiễn công tác dân vận được kết tinh trong tác phẩm Dân vận thể hiện sinh động, sâu sắc tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh. Cùng với thời gian, tư tưởng Dân vận vẫn nóng hổi tính thời sự, vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, khẳng định sức sống và giá trị bền vững, tiếp tục dẫn đường, soi sáng cho công tác dân vận của Đảng trong tình hình hiện nay./.

Nguồn: danvan.vn

Sưu tầm: H.C

 

Visits: 11

Bài viết Liên quan

Tiếp tục thực hiện Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” trên địa bàn tỉnh năm 2024. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật mới như: Luật Căn cước năm 2023, Luật Đất đai năm 2024 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 và Luật Đường bộ năm 2024

Nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong cán bộ, hội viên, phụ nữ và người dân “Tài liệu tuyên truyền, phổ biến một số

Xem chi tiết »